Trên giống lợn Ưu thế lai

Trên thế giới

Trên thế giới, việc sử dụng đực lai cuối cùng là rất phổ biến, các tổ hợp đực lai tổng hợp cuối cùng có ưu thế lai cao và hạ giá thành sản xuất con giống. Hiện nay, các dòng tổng hợp - đực lai cuối cùng được sử dụng rất phổ biến trên thế giới vì có ưu thế lai cao, giá thành sản xuất hạ. Tuy vậy, tùy theo nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ở các quốc gia khác nhau, việc sử dụng hệ thống lai thương phẩm cũng có sự khác biệt đáng kể giữa các khu vực hay giữa các quốc gia. Do tính chất thương mại và hiệu quả trước mắt của các công ty, hầu hết các tổ hợp lai đực cuối cùng chỉ dừng lại ở việc sử dụng các tổ hợp lai làm đực cuối cùng trong công thức lai thương phẩm vì ưu thế lai cao nhất.

  • Ở khu vực Bắc Mỹ, dòng đực P76 là một trong những dòng đực lai tổng hợp cuối cùng đầu tiên trên thế giới, được lai tạo bởi công ty Penarlan - Canada vào năm 1972. Đây là dòng đực tổng hợp đã được lai tạo và chọn lọc trong nhiều năm dựa trên nguồn gen Yorkshire và Duroc. Đặc điểm nổi bật của dòng đực lai này có tốc độ sinh trưởng nhanh, tỷ lệ nạc cao và diện tích thăn thịt lớn, công ty Penarlan tiếp tục phát triển dòng đực lai tổng hợp mới có tên là Huron (Duroc x Yorkshire) cho thị trường Bắc Mỹ và Nhật Bản chủ yếu dựa trên tỷ lệ mỡ giắt cao
  • Ở châu Âu, công ty đã phát triển một số dòng đực cuối cùng cho các hệ thống lai thương phẩm ở các quốc gia châu Âu dựa trên các giống thuần hoặc lai giữa các giống Large White, Landrace và Pietrain. Trong đó nổi bật là một số dòng như TEMPO (LargeWhite thuần), TYPOR (lai giữa Pietrain và LargeWhite) và TOP PIE (Pietrain thuần). Dòng đực TEMPO (LargeWhite thuần) cho đời con có tính đồng nhất cao, lợn con khỏe mạnh, số con cai sữa tăng, sức đề kháng bệnh cao và chất lượng thịt cao. Dòng TYPOR có tốc độ sinh trưởng nhanh, tỷ lệ thịt xẻ, cơ bắp cao và chi phí thức ăn thấp. Trong khi đó dòng TOP PIE đáp ứng các yêu cầu về chất lượng thịt cao, thịt xẻ và cơ bắp nhiều, chất lượng thịt cực cao, tiêu tốn thức ăn thấp. Công ty Rattlerow Seghers Holding (Bỉ) đã chọn tạo dòng đực Pietrain trắng (khoảng 90% máu Pietrain và 10% máu LargeWhite) từ năm 1989 và đã sử dụng chúng như dòng đực cuối cùng trong hệ thống lai thương phẩm.

Việt Nam

Xu hướng các giống heo nội đang dần được thay thế bởi các heo ngoại cao sản, đặc biệt ở nhiều trại quy mô lớn có trình độ chăn nuôi thâm canh và đầu tư cao. Trong điều kiện sản xuất nông hộ ở nhiều vùng nông thôn Việt Nam, đại đa số nông dân nuôi con lai giữa nái địa phương và đực ngoại. Các giống heo nái nội có tầm vóc nhỏ bé, nhiều mỡ, ít nạc, nhưng có nhiều đặc tính ưu việt: Chịu kham khổ, dễ nuôi dưỡng, tận dụng tốt nguồn thức ăn địa phương, mắn đẻ, nuôi con khéo, đề kháng cao với bệnh tật và đặc biệt thích nghi với môi trường khí hậu. Trong khi đó các giống ngoại lớn nhanh cho nhiều nạc. Lai tạo giữa các giống heo nội với các giống heo ngoại sẽ kết hợp bổ sung những đặc tính tốt của cả hai giống. Con lai có tầm vóc cải thiện, tăng trọng cao và giữ được năng suất sinh sản tốt. Phải bảo tồn nguồn gen heo nội để nhân thuần cung cấp nái nền lai tạo với các giống ngoại nhập.

Lai kinh tế 3 hoặc 4 giống trong sản xuất lợn thịt đang ngày càng phổ biến trên thế giới vì bằng cách này ưu thế lai về sinh sản cũng như sinh trưởng được khai thác tối đa và tạo được sản phẩm đồng đều về chất lượng. Thông thường lợn nái bố mẹ được tạo lập từ 2 giống cơ bản là lợn Landracelợn Yorkshire gọi là lợn nái 2 máu LY. Lợn nái LY có nhiều ưu điểm vượt trội hơn như tốc độ tăng trọng cao, sức khoẻ tốt, dễ nuôi, đẻ nhiều hơn, nuôi con giỏi hơn. Mức độ vượt trội của lợn nái LY so với lợn thuần được gọi là ưu thế lai. Độ lớn ưu thế lai có khác nhau giữa các đàn nái LY do đặc điểm di truyền tạo lập nên ở các nhóm giống thuần Landrace và Yorkshire. Lợn thịt lai 4 giống DP(LY) sản xuất từ đực cuối CP709 tăng trọng nhanh hơn lợn thịt lai 3 giống D(LY) sản xuất từ đực cuối CP809, nhưng tỷ lệ móc hàm thấp hơn, mỡ lưng dày hơn nên tỷ lệ nạc so với trọng lượng sống giữa hai loại lợn thịt lai 3 giống và 4 giống tương đương nhau.

Lợn nái LY được cho giao phối với đực giống cuối để sản xuất lợn thịt thương phẩm. Tiêu chuẩn đối với lợn đực giống cuối là con lai của chúng sinh ra phải có tốc độ tăng trọng lớn, tỷ lệ nạc cao, và chất lượng thịt gon cũng như màu thịt nạc hấp dẫn. Các loại đực giống cuối đang được khuyến cáo hiện nay là lợn đực giống Duroc, hoặc lợn đực lai hai giống giữa Duroc và Pietrain (PD). Lợn thịt tạo ra từ mẹ LY với bố Duroc gọi là lợn thịt thương phẩm 3 giống, D (LY). Lợn thịt tạo ra từ mẹ LY với bố là PD gọi là lợn thịt thương phẩm 4 giống PD(LY). Cả hai phương pháp lai 3 giống hay 4 giống đều khai thác tối đa 100% ưu thế lai về khả năng sản xuất thịt ở thế hệ con lai. Lợn nái bố mẹ LY được sản xuất từ các đòng thuần Landrace và Yorkshire. Các dòng thuần Landrace và Yorkshire được chọn lọc qua nhiều năm dựa trên chỉ số tổng hợp các giá trị di truyền về số con sinh ra còn sống, tăng trọng gram/ngày và tỷ lệ nạc.

Để giải quyết tốt về chất lượng con giống lợn nái đáp ứng được nhu cầu chăn nuôi sản xuất hàng hóa, mô hình ứng dụng tiến bộ kỹ thuật nuôi lợn nái dòng VCN21, VCN22 nhằm tăng năng suất, chất lượng thịt. Dòng lợn bố mẹ VCN21, VCN22 được tạo từ các dòng lợn cụ kỵ có nguồn gốc PIC như VCN01, VCN02, VCN 04 và VCN05 được sử dụng làm nguyên liệu để sản xuất ra lợn cái ông bà VCN11; VCN 12 (C1050; C1230 cũ); 2 dòng này được phối với VCN03 (Lợn Duroc) từ đó sản xuất ra lợn cái bố mẹ VCN 21; VCN 22 (CA và C22 cũ) và được phối với dòng đực VCN23 (402 cũ) để tạo ra đàn lợn thương phẩm 4 và 5 dòng.Đây chính là kết quả của việc sử dụng ưu thế lai trong việc tạo ra con thương phẩm 4 và 5 dòng có năng suất và chất lượng cao, khả năng tăng trọng nhanh, tỉ lệ nạc cao và tiêu tốn thức ăn thấp, đáp ứng được nhu cầu thị trường hiện nay.

Hai dòng lợn nái này được tạo ra từ các giống lợn ngoại cao sản như lợn Yorshike, lợn Landrace, lợn Meishan, lợn Duroc, lợn Peitrain nên về bản chất nó mang hoàn toàn máu lợn ngoại. Do đó, về đặc điểm ngoại hình chúng thuộc loại hình hướng nạc-mỡ, độ dài mình vừa phải, trán rộng, tai to mỏng, màu lông da trắng tuyền, thể chất tương đối khoẻ mạnh và thích nghi khá tốt với điều kiện khí hậu Việt Nam. Đàn lợn thương phẩm tạo ra có khả năng tiêu tốn thức ăn thấp (dưới 2,5 kg), tăng trọng cơ thể nhanh (trên 750g/ngày) và khả năng chống chịu bệnh tật tốt, tỷ lệ nạc cao (trên 60%), giá thành sản phẩm hạ và đem lại hiệu quả kinh tế cho người chăn nuôi. Về khả năng sinh trưởng, phát dục của lợn cái hậu bị dòng VCN21, VCN22 cho thấy: tuổi động dục lần đầu của lợn cái hậu bị dòng VCN21 là 230,6 ngày; dòng VCN22 là 228,3 ngày; tuổi phối giống lần đầu lần lượt là 254,9 và 251,7 ngày. Tuổi đẻ lứa đầu của dòng VCN22 là 366,6 ngày sớm hơn dòng VCN21 là 369,2 ngày.

Dòng VCN22 là dòng mang nguồn gen của dòng mẹ L95 (Lợn Meishan tổng hợp) nên có tuổi phối giống lần đầu và tuổi đẻ lứa đầu sớm hơn dòng VCN21 mang nguồn gen của dòng mẹ L06 (Landrace). Kết quả về năng suất sinh sản của hai dòng lợn nái ngoại bố mẹ VCN21, VCN22 ở lứa 1 cho thấy số con sơ sinh/ổ của lợn nái dòng VCN21 là 10,7 con thấp hơn dòng VCN22 là 11 con. Số con sơ sinh sống/ổ của lợn nái dòng VCN21, VCN22 lần lượt là 9,93 và 10,2 con/ổ. Kết quả theo dõi về tiêu tốn thức ăn của lợn nái ngoại bố mẹ dòng VCN21, VCN22 cho thấy: tiêu tốn thức ăn/kg lợn con cai sữa ở hai dòng VCN21, VCN22 lần lượt là 5,66 kg và 5,88 kg. Mức tiêu tốn thức ăn/kg lợn con cai sữa của dòng VCN21 giảm 0,22 kg so với dòng VCN22, song mức chênh lệch này không nhiều. Trong các giai đoạn của quá trình nuôi, lượng thức ăn tiêu thụ của dòng VCN22 cũng đều cao hơn dòng VCN21.

Đánh giá khả năng sinh trưởng của lợn thương phẩm tạo ra từ 2 dòng nái VCN21, VCN22 phối với đực giống Pi4 cho kết quả khả quan. Con lai của dòng VCN21 ở 166 ngày đạt khối lượng 99,4 kg; dòng VCN22 là 164 ngày đạt khối lượng 94,37 kg. Lợn lai dòng VCN21 có khả năng sinh trưởng cao hơn con lai của dòng VCN22, thể hiện rõ ở chỉ tiêu tăng trọng của con lai dòng VCN21 là 765,15 gram/ngày, của con lai dòng VCN22 là 728,35 gram/ngày. Mức sinh trưởng của con lai dòng VCN21 và VCN22 là tương đối tốt. Về tiêu tốn thức ăn/kg tăng khối lượng lợn con từ cai sữa đến 60 ngày tuổi của hai dòng VCN21 là 1,34 kg thức ăn/kg tăng khối lượng, dòng VCN22 là 1,39 kg thức ăn/kg tăng khối lượng. Năng suất sinh sản của lợn nái và khả năng sinh trưởng của lợn thương phẩm tạo ra từ lợn nái VCN21, VCN22, đưa lợn nái ngoại dòng VCN21, VCN22 vào cơ cấu để lai tạo tạo ra đàn lợn thương phẩm có năng suất, chất lượng cao, chất lượng thịt tốt, đem lại hiệu quả kinh tế[2]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Ưu thế lai http://beefmagazine.com/mag/beef_ranchstar/ http://www.cobb-vantress.com/Publications/document... http://www.feathersite.com/Poultry/CGP/Sex-links/B... http://khuyennongbacgiang.com/index.php?option=com... http://www.urbanext.uiuc.edu/hortihints/0102a.html http://gears.tucson.ars.ag.gov/book/hybrid.html //www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC540269 //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/14523245 http://www.nwfsc.noaa.gov/publications/techmemos/t... //dx.doi.org/10.1105%2Ftpc.151030